Thị trường lúa gạo tại Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) ngày 10/5 ghi nhận biến động giá nhẹ, chủ yếu do nguồn cung lúa Hè Thu thu hoạch sớm còn hạn chế.
Theo cập nhật từ Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh An Giang, giá lúa tươi các loại dao động ở mức thấp hơn so với kỳ vọng của nông dân. Cụ thể, lúa OM 380 (tươi) giảm 100 đồng/kg, đạt 5.600 – 5.800 đồng/kg. Lúa IR 50404 (tươi) ổn định ở mức 5.400 – 5.700 đồng/kg, trong khi lúa OM 5451 (tươi) đạt 6.200 – 6.400 đồng/kg.
Các giống lúa chất lượng cao như OM 18 (tươi) và Đài Thơm 8 (tươi) ghi nhận mức giá cao hơn, lần lượt ở 6.800 – 7.000 đồng/kg và 6.900 – 7.000 đồng/kg. Lúa Nàng Hoa 9 dao động ở 6.650 – 6.750 đồng/kg.
Ghi nhận tại các tỉnh ĐBSCL, hoạt động giao dịch lúa diễn ra trầm lắng. Tại An Giang, lúa Hè Thu thu hoạch sớm chỉ diễn ra lai rai, nông dân giữ giá chào bán nhưng thương lái mua chậm.
Tương tự, tại Kiên Giang, giá lúa Hè Thu ổn định nhưng giao dịch mới chưa sôi động. Tại Đồng Tháp, nguồn lúa khan hiếm, dẫn đến ít giao dịch mua bán. Long An cũng ghi nhận tình trạng tương tự, với nông dân chào giá vững nhưng thị trường kém sôi động, giá lúa giữ nguyên so với ngày trước.
Đối với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu tại An Giang dao động ở mức ổn định. Gạo nguyên liệu OM 380 đạt 8.000 – 8.100 đồng/kg, gạo IR 504 ở mức 8.200 – 8.250 đồng/kg, trong khi gạo CL 555 cao hơn, đạt 8.600 – 8.800 đồng/kg.
Gạo nguyên liệu OM 18 ghi nhận mức giá cao nhất, dao động từ 10.200 – 10.400 đồng/kg, và gạo OM 5451 ở mức 9.600 – 9.750 đồng/kg. Gạo thành phẩm cũng duy trì giá ổn định, với gạo OM 380 đạt 8.800 – 9.000 đồng/kg và gạo IR 504 ở mức 9.500 – 9.700 đồng/kg.
Tại các địa phương, nguồn gạo về kho không đều. Ở An Giang, gạo đẹp được kho giữ giá vững, giao dịch mua bán diễn ra đều đặn.
Tại Lấp Vò (Đồng Tháp), lượng gạo về ít, giá các loại gạo ổn định. Kênh chợ Sa Đéc (Đồng Tháp) ghi nhận lượng gạo về lai rai, kho chợ mua chậm, giá không biến động. Tương tự, tại An Cư (Cái Bè, Tiền Giang), giao dịch mua bán gạo trầm lắng, giá ít thay đổi.
Trên thị trường bán lẻ, giá gạo tại các chợ ổn định so với ngày trước. Gạo Nàng Nhen tiếp tục dẫn đầu với mức giá 28.000 đồng/kg. Gạo thường dao động từ 13.000 – 15.000 đồng/kg, gạo thơm Jasmine ở mức 16.000 – 18.000 đồng/kg và gạo trắng thông dụng đạt 16.000 đồng/kg.
Các loại gạo cao cấp như gạo thơm thái hạt dài (20.000 – 22.000 đồng/kg), gạo Hương Lài (22.000 đồng/kg), gạo Nàng Hoa (21.000 đồng/kg), gạo thơm Đài Loan (20.000 đồng/kg), gạo Sóc Thái (20.000 đồng/kg), và gạo Nhật (22.000 đồng/kg) giữ giá ổn định.
Phụ phẩm từ lúa gạo, bao gồm tấm và cám, cũng ghi nhận giá ổn định. Tấm OM 5451 dao động ở mức 7.350 – 7.450 đồng/kg, trong khi giá cám đạt 8.000 – 9.000 đồng/kg, phản ánh nhu cầu ổn định từ ngành chăn nuôi và chế biến.
Sự biến động nhẹ của giá lúa gạo ngày 10/5 phản ánh rõ nét tình trạng nguồn cung hạn chế trong giai đoạn đầu vụ Hè Thu. Việc lúa thu hoạch sớm chỉ diễn ra lai rai tại các tỉnh ĐBSCL, đặc biệt ở An Giang và Đồng Tháp, khiến nguồn cung lúa tươi không đủ để thúc đẩy giao dịch sôi động.
Đối với mặt hàng gạo, giá gạo nguyên liệu và thành phẩm ổn định cho thấy sự cân bằng tạm thời giữa cung và cầu. Các giống gạo chất lượng cao như OM 18 và OM 5451 duy trì mức giá tốt, phản ánh nhu cầu ổn định từ thị trường nội địa và xuất khẩu.
Tuy nhiên, lượng gạo về kho không đều, đặc biệt tại các khu vực như Lấp Vò và An Cư, cho thấy khó khăn trong việc duy trì nguồn cung liên tục. Giao dịch tại các kênh chợ như Sa Đéc chậm lại, phần lớn do các kho hạn chế mua vào khi lượng gạo tồn kho còn nhiều.
Trên thị trường bán lẻ, giá gạo ổn định phản ánh tâm lý tiêu dùng thận trọng. Các loại gạo cao cấp như Nàng Nhen, Hương Lài và gạo Nhật tiếp tục được ưa chuộng, nhưng sức mua không tăng đột biến.
Về phụ phẩm, giá tấm và cám ổn định cho thấy nhu cầu từ ngành chăn nuôi và chế biến thực phẩm vẫn duy trì ở mức khá. Tuy nhiên, mức giá cám dao động rộng (8.000 – 9.000 đồng/kg) cho thấy sự khác biệt trong chất lượng và nguồn cung tại các địa phương.
Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo Việt Nam duy trì sự ổn định với mức tăng nhẹ 1 USD/tấn đối với gạo 5% tấm, đạt 398 USD/tấn. Gạo 25% tấm và 100% tấm lần lượt đạt 368 USD/tấn và 323 USD/tấn. Sự ổn định này cho thấy vị thế cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường quốc tế, đặc biệt trong bối cảnh nhu cầu từ các thị trường truyền thống như Philippines và Indonesia vẫn duy trì.
Nhìn vào dữ liệu ngày 10/5, thị trường lúa gạo tại ĐBSCL đang trong giai đoạn chuyển giao giữa các vụ mùa, với nguồn cung hạn chế là yếu tố chi phối chính.
Trong ngắn hạn, giá lúa có thể tiếp tục biến động nhẹ, đặc biệt với các giống lúa như OM 380 và IR 50404 do nguồn cung chưa dồi dào. Các giống lúa cao cấp như OM 18 và Đài Thơm 8 dự kiến duy trì giá ổn định nhờ nhu cầu từ thị trường nội địa và xuất khẩu.
Theo dõi sát diễn biến thị trường, Tài Chính 247 nhận định rằng giao dịch lúa gạo có thể sôi động hơn vào cuối tháng 5, khi vụ Hè Thu vào cao điểm thu hoạch, giúp tăng nguồn cung và kích thích hoạt động mua bán. Trên thị trường xuất khẩu, giá gạo Việt Nam được dự báo duy trì sự ổn định, với khả năng tăng nhẹ nếu nhu cầu từ các thị trường lớn tiếp tục tăng.
Ngày 12/05/2025, giá vàng trong nước và quốc tế giảm do đàm phán Mỹ - Trung, nhưng là cơ hội mua vào dài hạn khi kiểm tra mức hỗ trợ 3.000 USD/ounce.
12/05/2025 - 15:26Thị trường lúa gạo ngày 10/5 tại ĐBSCL ít biến động. Giao dịch chậm, nguồn cung thấp là yếu tố chính ảnh hưởng đến diễn biến thị trường hiện tại.
12/05/2025 - 14:37Năm 2024, kinh tế số Việt Nam tăng trưởng vượt 20%, nhờ thương mại điện tử, tài chính số và chuyển đổi số quốc gia.
12/05/2025 - 18:04Ngày 10/5/2025, TTC Plaza Đà Nẵng hoàn thành cất nóc, bàn giao khối đế thương mại cho AeonMall Việt Nam, đánh dấu bước tiến lớn trong bất động sản phức hợp miền Trung.
10/05/2025 - 17:12Mỹ hoãn thuế đối ứng 90 ngày, doanh nghiệp Việt tận dụng thời gian tái cấu trúc chuỗi cung ứng.
14/04/2025 - 14:41Sáng 8/4, triển lãm “50 năm vang mãi bản hùng ca” khai mạc tại Bảo tàng Chiến dịch Hồ Chí Minh, đánh dấu 50 năm thống nhất đất nước với gần 500 tư liệu, hiện vật giá trị.
11/04/2025 - 16:03